Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Các bước phát triển của đàn piano


Cây đàn piano đã trải qua rất nhiều các bước phát triến với tên ban đầu là gravicembalo col piano et forte (đàn clavecin có âm thanh êm ái và mạnh mẽ). Ngày nay cây đàn Piano không hổ danh khi được gọi là “ông hoàng của các loại nhạc cụ”. …

Với âm vực rộng, âm sắc thánh thót, kiều diễm, khả năng biểu hiện phong phú, nhất là về mặt xử lý cường độ tinh tế – như chính tên gọi của nó. Song để có được như hôm nay, lịch sử cây đàn piano là cả một chặng đường dài với nhiều cải tiến thử nghiệm mà điều then chốt giúp nó trở thành “ông hoàng” lại là ý tưởng của một nhân viên bảo quản bảo tàng nhạc cụ.Sau đây xin nói về các bước phát triển của cây đàn piano Đàn Harpsichord Harpsichord là một nhạc cụ xuất hiện từ thế kỉ 15. Đó là một nhạc cụ có phím và dây, trong đó dây được gẩy bằng một mẩu lông quạ gắn ở cuối phím. Harpsichord có nhiều kiểu hình dáng và có thể có dạng giống như một chiếc “dương cầm lớn”. Mặc dù harpsichord rất phổ biến trong vài thế kỉ và được nhiều nhà soạn nhạc lừng danh như J.S.Bach sử dụng, nó có một nhược điểm lớn: không có khả năng phát tiếng to nhỏ theo độ mạnh nhẹ khi bấm của người chơi. Clavichord. Clavichord là một trong những nhạc cụ phím đơn giản và nhỏ nhất mà âm thanh được phát ra bằng dây. Dựa trên các hình vẽ và ghi ghép, người ta cho rằng clavichord, với hình dạng giống như một số mẫu hiện còn tồn tại, đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ 15. Clavichord được sử dụng rộng rãi ở Tây Âu vào thờiPhục hưng và ở Đức cho đến đầu thế kỉ 19 nhưng chỉ được coi như một nhạc cụ để học và chơi chứ ít khi dùng để sáng tác. Khi người chơi bấm vào phím, một mảnh kim loại bật lên và đập vào dây đàn. Mảnh kim loại còn có tác dụng như một thanh chặn dây, và nốt nhạc được ngân lên cho đến khi phím đàn được thả ra. Hệ thống đơn giản này giúp cho người đọc kiểm soát được cường độ và trường độ của âm thanh Pianoforte. Cho tới năm 1709, người thợ chế tạo harpsichord người Ý Bartolomeo Cristofori đã chế tạo chiếc dương cầm đầu tiên trên thế giới gọi làpiano et forte (nhẹ và mạnh). Không lâu sau, những người thợ khác tạo ra những chiếc pianoforte với búa. Tiếp đó, pianoforte thay thế harpsichord và clavichord bởi nó có những ưu điểm mà các nhạc cụ phím khác không có. Fortepiano là một nhạc cụ dây-búa có khả năng tạo ra những sự thay đổi âm thanh nhỏ thông qua sự bấm phím mạnh hay nhẹ của người chơi. Đến khoảng năm 1850, từ “fortepiano” được thay thế bởi từ “piano”. Vào những năm đầu thế kỉ 18, dương cầm không mấy thu hút được sự chú ý và ủng hộ. J.S. Bach có lẽ thích clavichord, nhạc cụ mà ông đã quen chơi và cũng là nhạc cụ chơi dễ hơn. Dương cầm vuông. Vào khoảng 1760, Johannes Zumpe chế tạo chiếc dương cầm vuông kiểu Anh lần đầu tiên tại London (sau được biết đến với cái tên “piano vuông lớn”). Sau đó không lâu, Broadwood ở London và Erard ở Pháp cũng chế tạo ra những chiếc tương tự. Johann Behrend ở Philadelphia trưng bày chiếc đàn vuông của ông vào năm 1775. Những chiếc đàn vuông này có tiếng hơi yếu yếu và không thể so sánh được với chiếc pianoforte lớn (kiểu có nắp rộng bản). Thêm vào đó, những chiếc dương cầm vuông không có cơ cấu nhấc và búa của chúng không thể gõ vào dây một cách liên tục. Ngoài ra, búa đàn, làm bằng những mảnh gỗ nhỏ với một lớp da mỏng, đều cùng một kích thước dù chúng phải gõ lên những dây bass lớn nhất. Rất nhiều công ty sản xuất dương cầm hàng đầu của Mĩ chế tạo những chiếc dương cầm vuông lớn được đẽo nhằm mục đích trang trí trong suốt thập niên 1800, bao gồm Chickering, Knabe, Steinway và Mathushek. Mặc dù trong suốt 75 năm sau đã có một số thay đổi về chế tạo đàn dương cầm, chiếc dương cầm vuông tiếp tục thống lĩnh thị trường, đặc biệt ở Mĩ. Một sự tụt hậu trong những nhạc cụ phím đầu tiên, bao gồm cả những chiếc dương cầm vuông đầu tiên, chính là sự yếu ớt trong âm thanh. Yêu cầu phải có những âm thanh mạnh mẽ hơn chỉ có thể được thỏa mãn với việc sử dụng những dây nặng hơn và một khung âm lớn hơn. Cách giải quyết này rất hạn chế bởi khung gỗ không thể chịu đựng nổi sức căng của những dây nặng đó. Vào khoảng năm 1825, Alpheus Babcock đã chế tạo một khung sắt hoàn chỉnh. Tuy nhiên, phải đến 1837 Jonas Chickering mới hoàn chỉnh cấu tạo và nhận được bằng sáng chế không lâu sau đó. Mặc dù vẫn có những tranh cãi rằng khung sắt ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng âm thanh, cuối cùng khung sắt vẫn được ủng hộ. Vào năm 1855, Steinway trưng bày chiếc dương cầm vuông theo kiểu dây đan tại hội chợ thế giới ở Thành phố New York và chứng minh rằng nó là một đối thủ đáng gờm của về chế tạo dương cầm của Chickering. Thiết kế mới về cách mắc dây này đã tạo ra một sự thúc đẩy mạnh mẽ cho sự nghiên cứu chế tạo dương cầm trong tương lai. Các kiểu đàn hiện tại. Hiện nay Dương cầm rất thông dụng trong nền âm nhạc của chúng ta. Và với bàn tay các nghệ sĩ tuyệt vời đã làm nên những chiếc Dương cầm cực kì hiện đại và đẹp mắt. Như hình bên dưới.

Đàn piano ra đời như thế nào?

Đàn piano ra đời như thế nào?

Đàn piano ra đời như thế nào? Đàn piano ra đời như thế nào chắc hẳn không một người học piano nào không quan tâm. Bài viết dưới đây sẽ viết và giới thiệu cụ thể về lịch sử ra đời và phát triển của từng loại đàn piano. 1.Grand piano Những chiếc grand piano ngày nay được xây dựng trực tiếp từ những chiếc đàn clavico-clavecin (harpsichord) từ khoảng thế kỷ 16 và 17. Khoảng năm 1700, Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một chiếc đàn harpsichord mà có thể biểu hiện âm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra một bộ máy mà các búa gõ vào các dây, khác với đàn harpsichord là dùng quill (dụng cụ gảy đàn bằng ống lông) để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn piano thời đầu của ông là cơ cấu búa thoát, nó khiến cho búa tách rời khỏi phím một khi các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở một vận tốc khác hẳn, làm thay đổi hẳn sự biểu cảm của chính các note đó. Những chiếc piano đầu tiên của Critofori vẫn còn chứa đựng rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, còn âm thanh thì phần nhiều vẫn như thế, ngoại trừ việc là người chơi bấy giờ có thể chơi nhạc bằng việc nhấn vào bàn phím. Các thiết kế của Critofori không được biết đến mãi cho đến những năm cuối của 1700, khi các bản thiết kế piano của ông được xuất bản. Các nhà sản xuất như Gottfried Silbermann người Đức và học trò của ông là Christian Friederici và Johannes Zumpe bắt đầu phát triển piano với vai trò là một nhạc cụ độc lập với clavecin. Mặc dù lúc đầu ko được ấn tượng cho lắm nhưng được J.S.Bach ủng hộ năm 1747. Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho piano từ năm 1732 và kỷ nguyên của nó với vai trò một nhạc cụ dành cho biểu diễn bắt đầu. Sự phát triển của grand piano sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng cơ bản. Ở Anh, đàn piano được thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn, giống với những cây đàn ngày nay hơn. Ở Đức, một loại khác nhẹ hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn xứ Vienna, được nhà sản xuất Johann Andreas Stein xây dựng, đó chính là những cây đàn mà Haydn, Mozartvà Beethoven đã chơi và soạn nhạc trên đó. Khi grand piano ngày càng phát triển, nó dần trở thành một nhạc cụ độc lập và cần làm cho âm thanh to hơn. Để tăng âm, các dây phải dầy hơn và bộ khung phải khoẻ hơn nữa, như thế có thể đạt được một áp lực lớn hơn. Bộ khung của đàn piano thông thường được làm bằng gỗ, trở nên dày hơn và nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó kiên cố hơn. Đến năm 1820, Thomas Allen thậm chí vẫn còn dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một nhà sản xuất thành công người Anh là John Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằng sắt để giữ cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó phần lớn được làm bằng kim loại hơn là bằng gỗ. Năm 1825 Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằng gang và sau đó năm 1843, một người Mỹ là Jonas Chickering bắt đầu làm piano với một đĩa tròn vành, một nét đặc trưng của các piano cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú ý khác là việc chằng các dây, được phát triển bởi Henri Pape năm 1828 và Steinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt các dây bass dài hơn lên cao hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt các dây bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng (soundboard) để có một sự hồi âm tốt hơn. Grand piano được bắt đầu sản xuất hàng loạt vào những năm 1800, cùng với sự thành lập của các công ty như: John Broadwood & Sons,Jonas Chickering, Julius Blũthner, Ignaz Bosendorfer, Friedrich Bechstein, Henry Steinway và Sebastien Erard, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền tảng của mẫu đàn cánh đó tới năm 1821. 2.Vertical piano Sự thử nghiệm đầu tiên để tạo ra một vertical piano đứng xảy ra khoảng vào giữa năm 1735 và 1745. Một người Italia là Domenico Del Mela đã thiết kế một chiếc vertical piano năm 1739 sử dụng một cấu trúc đơn giản. Năm 1745 một người Đức là Christian Ernst Friederici lại tạo ra một loại nhạc cụ được biết đến là “Pyramid piano” (piano kim tự tháp), sở dĩ có tên như vậy là vì hình dáng đặc biệt của chúng. Friederici xuất phát từ cây đàn grand piano vốn có và kết hợp thiết kế hình dáng của vertical piano, nâng các dây và soundboard lên vuông góc với bàn phím và vì thế khiến chúng đứng thẳng, còn các trục lên dây ở dưới đáy của bộ dây, ngay trên các phím. Các cấu trúc piano mà Friederici sử dụng là một phiên bản giản đơn hoá từ một thiết kế của Bartolomeo Christofori năm 1720, tuy nhiên bộ cơ của Friederici thiếu mất các đặc trưng mô phỏng trong nguyên bản của Christofori. Toàn khối nhạc cụ đó được đặt đứng trên một cái bệ hoặc bàn và đằng trước có các cánh cửa có thể đóng mở tự động, để lộ ra bộ dây và soundboard. Các thiết kế này mới chỉ kết hợp giữa grand và vertical piano, sử dụng các dây và soundboard của vertical piano và bộ cơ của grand piano. Các mẫu này được đưa ra vào những năm 1800 nhưng rất mờ nhạt và thua kém so với những mẫu sau này, và đến năm 1840, pyramid piano và vertical piano đã cùng đồng thời bị ngừng sản xuất. Vertical piano còn tiến hoá đến tận cuối những năm 1780 với sự phát triển của một cấu trúc được thiết kế hoàn toàn thẳng đứng, theo sự thẳng hàng của bộ dây và soundboard. Những chiếc đàn đầu tiên được gọi là một “sticker” (gai), vì có những cái sticker dài làm bằng gỗ nối mặt sau của phím tới đầu cần. Đầu cần được dựng vuông góc với bộ dây và bắt đầu một quá trình bằng việc đầu cần đập trở lại các dây và cứ thế tiếp tục quay lại. Nó được John Landreth thiết kế vào năm 1787 và được William Southwell người Anh xây dựng và bổ sung năm 1798. Một sự phát triển quan trọng khác nữa là dây chằng chéo, giúp cho các dây ở đàn vertical piano dài hơn và cải thiện âm thanh. Năm 1831 Hermann Lichtenthal đã thiết kế ra một hệ thống mà ở đó búa được kiểm soát bằng độ dài của dải băng, như vậy sẽ không cần phải dồn các dây lên một cú đánh đơn lẻ nữa. Robert Wornum – người Anh đã tinh lọc cơ cấu tape-check, đó là cơ sở cho các bộ cơ của vertical piano ngày nay. Có 2 phương thức chống rung bộ dây khác nhau đã được cải tiến. Một cách là sử dụng hệ thống overdamper (giảm âm quá mức), ở đó một dây kim loại dài được gắn với đằng trước của mỗi đòn bẩy trung gian để đi lên và vượt qua đỉnh của các búa. Khi nhấn các phím, sợi dây sẽ chuyển động theo một liên kết để đặt một miếng nỉ hình vuông xuống các dây trước khi búa đập xuống và bật miếng nỉ trở lại khi không nhấn các phím nữa. Hệ thống này tiếp tục được sử dụng cho đến những năm cuối 1800 và rất phổ biến ở Anh và Đức. Hệ thống chống rung thứ hai là một đòn bẩy có bản lề, được nối tới đằng sau của mỗi máy búa gần bộ dây, nó xoay miếng nỉ vuông rời khỏi dây bằng một vòng xích tới đòn bẩy trung gian. Thiết kế này có hiệu quả hơn trong việc chống rung và được sử dụng ở các vertical piano ngày nay. Mẫu vertical piano đã tương đối hoàn chỉnh và các cây đàn ngày nay cơ bản là không thay đổi gì so với những thiết kế từ những năm đầu 1800 đó. Đến năm 1840, vertical piano tương tự như những gì chúng ta thấy ngày nay, mặc dù có nhỏ hơn và với cấu trúc tinh vi hơn. Các dây giờ đây chạy thẳng từ đỉnh xuống đáy thùng (mà giờ đây được đặt dưới đất chứ ko phải trên một cái bàn như ở pyramid piano). Hệ thống lên dây giờ đây được đặt ở đỉnh của hộp đàn, với các dây chạy chéo xuống hộp đàn và được gắn chặt ở đáy. Bộ cơ và bàn phím nằm ở trung tâm của bộ dây với một phím đẩy sticker lên cao và làm các búa chuyển động lại về hướng các dây. Những năm sau này, các nhà sản xuất đua nhau làm ra những chiếc đàn piano với những cải tiến hoặc biến đổi khác nhau. Có rất nhiều tên tuổi lớn trong làng sản xuất piano với những nhãn hiệu nổi tiếng và được tín nhiệm như : Broadwood, Baldwin, Marshall& Rose, Kemble,Yamaha, Kawai, Whelpdale & Maxwell, Steinway, Wendl & Lung…. mà ở mỗi hãng, cây đàn lại có một phong cách hay đặc trưng riêng biệt. Thế kỷ 20 đựơc nhìn nhận là có nhiều cuộc chạy đua về kỹ thuật và mẫu mã của cây đàn, hết phóng to lại thu nhỏ, thêm một bộ phận này, bớt một bộ phận khác, tuy vậy, về tổng thể, những thay đổi đó vẫn dựa trên những nguyên mẫu từ thế kỉ 19.

Sự khác biệt giữa đàn piano và đàn organ


Sự khác biệt giữa đàn piano và đàn organ Điều khác biệt cơ bản nhất là đàn piano thuộc bộ gõ còn đàn organ là đàn điện tử.Âm thanh của đàn organ không trung thực như đàn piano (vì là đàn điện tử) nhưng có thể giả âm thanh của nhiều nhạc cụ khác nhau và rất tiện về hòa âm phối khí cho người nhạc sĩ. Đàn piano thì ngược lại,nó chỉ có 1 loại âm thanh,nhưng tiếng của nó thì thanh tao,trầm bổng tuyệt vời Mỗi loại đàn có cái hay riêng của nó. Đàn Piano thường được sử dụng ở dàn nhạc bán cổ điển và xuất hiện ở những nơi sang trọng. Còn Organ được sử dụng một cách bình dân, đại trà hơn, có thể chơi chung với dàn nhạc và cũng có thể chỉ 1 mình nó cũng thành 1 dàn nhạc. Nói như nhiều người thì đàn Piano là loại đàn đẳng cấp bậc nhất, nhưng sử dụng đàn organ lại tiện lợi hơn rất nhiều.

piano



organ

Đàn piano chỉ có 1 loại âm thanh chuẩn thôi…..còn đàn organ thì giả lập được nhiều loại âm thanh ví dụ như tiếng Trống, bass, gita, piano, violon…..và dĩ nhiên các tiếng này chi là giả lập nên sẽ không hay bằng các nhạc cụ chuẩn

Đàn piano xưa và nay


Cây đàn piano dã không còn xa lạ với mỗi người chơi nhạc ngày nay. Thâm chí, đàn piano đã trở thành một nhạc cụ phổ biến được chơi rộng rãi trong các sự kiện. Tuy nhiên lịch sử về cây đàn piano thì không phải ai cũng biết…

Đàn piano có tên ban đầu là gravicembalo col piano e forte (đàn clavecin có âm thanh êm ái và mạnh mẽ). Ngày nay cây đàn piano không hổ danh khi được gọi là “ông hoàng của các loại nhạc cụ”. …Với âm vực rộng, âm sắc thánh thót, kiều diễm, khả năng biểu hiện phong phú, nhất là về mặt xử lý cường độ tinh tế – như chính tên gọi của nó. Song để có được như hôm nay, lịch sử cây đàn piano là cả một chặng đường dài với nhiều cải tiến thử nghiệm mà điều then chốt giúp nó trở thành “ông hoàng” lại là ý tưởng của một nhân viên bảo quản bảo tàng nhạc cụ.
Những thủy tổ của đàn piano:Đàn clavicorde
Trước khi lên ngôi vị như hiện nay, piano đã phải sống với một địa vị “thấp kém”, chẳng ai ngó ngàng tới. Lúc đầu, hình dáng nó khác hẳn với cây piano ngày nay và điều đặc biệt là nó đã bắt đầu với chỉ có… một dây – đó là loại đàn độc huyền của người Hy Lạp. Thuở ban đầu, đàn này được dùng làm dụng cụ vật lý và trợ lực thị giác cho các triết gia thời cổ đại và các nhà tu hành thời Trung cổ để nghiên cứu những qui tắc ký âm pháp – một môn khoa học của thời đó.

Một ngày kia, các nhà tu hành mới vào dòng tu ở một tu viện nảy ra ý nghĩ tập hợp nhiều đàn độc huyền lại và cho nó vang lên cùng một lúc để giải trí. Dưới mỗi dây đàn, họ đặt một giá đỡ và đính nó lại với một phím đàn. Khi lấy tay ấn xuống phím, giá đỡ chạm vào dây đàn và phát ra âm thanh. Đó là sự xuất hiện cây đàn phím đầu tiên – đàn clavicorde. Song vào thời đó (khoảng thế kỷ thứ 10), những giáo sĩ Trung cổ xem các tập hợp âm là sự phạm thượng vì Thượng đế chỉ thích các con chiên đồng ca một bè. Trong lúc đó, các nhạc sĩ dân gian đã sử dụng lối hát nhiều bè từ lâu. Vì vậy đàn clavicorde đã nhanh chóng vượt khỏi ranh giới nhà thờ để hòa mình vào đời sống âm nhạc “trần tục”.

Đàn clavecin

Hoà mình với cuộc sống những nghệ sĩ dân gian, đàn clavicorde chẳng hề cô độc vì chẳng bao lâu sau đó nó có một người bạn đang trưởng thành, đó là clavecin. So với clavicorde, đàn clavecin có những ưu điểm như: rất nhiều dây, mỗi phím ứng với một hoặc nhiều dây, trong lúc đàn clavicorde có khi có 4-5 giá đỡ và phím cho một dây (đến thế kỷ 18, clavicorde mới có số dây bằng số phím). Âm thanh của clavecin được tạo ra không phải là những giá đỡ chạm vào dây như của clavicorde mà là những lông quạ gảy vào dây, chính vì vậy mà âm thanh rõ ràng, trong sáng hơn. Âm thanh của nó đã mau chóng chinh phục mọi người, nó chỉ có một nhược điểm là dù tác động lên bàn phím mạnh hay nhẹ, âm thanh cũng phát ra với cường độ như nhau và đó cũng chính là điểm mấu chốt cần khắc phục để có thể nó lên ngôi.

Đàn clavecin đầu tiên có hình chữ nhật sau đó nó được cải tiến có hình cánh chim thanh thoát như cây grand-piano hiện nay. Thêm vào đó, các nhà chế tạo đàn còn bổ sung các họa tiết trang trí cầu kỳ, sơn và đánh bóng thật đẹp, nó trở thành vật trang trí và là nhạc cụ thời thượng không thể thiếu trong các phòng khách quí tộc. Ngoài ra, clavecin được cải tiến một số chi tiết đáng kể như: các lông quạ được thay bằng các đũa gảy bằng da hoặc kim loại, dây đàn bằng ruột súc vật thay bằng đồng thau. Nhạc cụ có âm thanh vang hơn và mang màu sắc mới. Song mặc dù được cải tiến nhiều, các nhạc sĩ rất ưa thích nó, nhưng họ cũng muốn clavecin có thể thay đổi cường độ để tạo những sắc thái tình cảm, muốn âm thanh ngân dài hơn, phong phú và truyền cảm hơn…

Dù đã được cải tiến rất nhiều nhưng clavecin chưa thật sự làm hài lòng các nhạc sĩ.


“Ông hoàng” ra đời và cha đẻ chết trong nghèo túng

Vào khoảng cuối thế kỷ 17 tại Bảo tàng nhạc cụ thành phố Florence nước Ý, có một nhân viên quản lý tên Bartolomeo Cristofori. Ông suốt đời sống giữa các cây đàn clavicorde, clavecin và tâm trí luôn nghĩ tới những dự kiến cải tiến đàn clavecin. Phát minh của ông rất đơn giản: thay các que gảy dây bằng các búa nhỏ đập vào dây, đập mạnh hay yếu ta sẽ có được âm thanh lớn hoặc nhỏ. Thật ra điều này không phải là mới, thời cổ xưa người ta đã chơi đàn tympanon bằng cách gõ vào dây. Vấn đề ở chỗ là làm cho búa gõ lên dây đàn liên hệ chặt chẽ với lực tác động lên bàn phím, để ấn mạnh lên phím đàn sẽ có âm thanh lớn, ấn nhẹ thì có âm thanh nhỏ hơn.

Người ta không biết Bartolomeo Cristofori mất bao nhiêu thời gian và thử nghiệm bao nhiêu giải pháp, nhưng năm 1709 những người đến bảo tàng Florence đã có thể chiêm ngưỡng bốn cây đàn clavecin cải tiến do ông chế tạo với cái tên gọi mới cũng do ông đặt là gravicembalo col piano e forte (mà sau này người ta gọi tắt là piano). Giải pháp ưu việt cuối cùng của ông là tạo ra một thiết bị tinh xảo gồm một đòn bẩy kép có gắn một búa nhỏ, nhẹ, bọc da, gắn với phím đàn và chịu tác động trực tiếp của lực tác động lên phím. Búa đập vào dây đàn để tạo âm thanh và có bộ phận tắt âm bằng dạ khi ngón tay không còn ấn xuống phím đàn nữa.

Những cây đàn này sau đó được trình cho người bảo trợ ông là công tước Ferdinand de Médicis và vào năm 1711, Scipione Maffei đã miêu tả nhạc cụ này trong tạp chí “Văn chương nước Ý”.

Tuy đàn piano có nhiều ưu điểm, nó vẫn chưa được các nhạc sĩ dùng ngay và Bartolomeo Cristofori đã chết trong nghèo túng vào năm 1731, không kịp chứng kiến phút đăng quang của đứa con do mình tạo ra và bản thân ông cũng không được nhiều người biết đến.

Đàn piano sau đó được các nhạc sĩ như J.S.Bach, W.A.Mozart, L.V.Beethoven tiếp nhận và thổi vào cho nó những giai điệu mê hoặc. Cùng với sự nhạy cảm về cường độ, âm thanh trong sáng, kiều diễm, nhiều sắc thái, các phòng hòa nhạc đã mở toang cửa đón nhận nó.

Đàn piano hiện đại

Đàn piano với âm thanh và sắc thái phong phú, tinh tế, khi thì vang dội như sấm sét, khi thì nhỏ nhẹ, êm ái, đã chinh phục được giới nhạc sĩ cũng như người yêu âm nhạc. Thành công ban đầu của đàn piano đã thúc đẩy các nhà chế tạo nhạc cụ tiếp tục cải tiến để làm nó ngày càng hoàn hảo. Đàn piano ngày nay là sản phẩm cải tiến của rất nhiều thế hệ nghệ nhân chế tạo đàn. Hiện nay đàn piano đã đạt tới sự hoàn chỉnh về cơ học, một động tác nhấn nhẹ lên phím cũng truyền đến được dây đàn. Ngay cả những khi thực hiện kỹ thuật trémolo với tốc độ nhanh nhất và sắc thái nhẹ nhất, đàn vẫn không bị “nghẹt tiếng”.

Cho đến ngày nay, những cải tiến đáng chú ý có thể kể như sau: việc phát minh ra hệ thống pédal (bàn đạp) để ngân dài âm thanh hoặc tắt âm thanh theo ý muốn. Dây đàn cũng được thay đổi, trước đây người ta dùng dây bằng đồng thau thay cho ruột súc vật, ngày nay dây đàn dùng một lõi thép đặc biệt bên ngoài quấn dây đồng cho chất lượng âm thanh tốt hơn. Việc bố trí dây đàn cũng có nhiều thay đổi, người ta có thể căng 2 hoặc 3 hàng dây chồng lên nhau, giảm bớt được diện tích mà tăng được số lượng âm thanh. Dây đàn cũng được kéo căng hơn để cho những âm thanh sáng, vang, trong hơn… Cũng chính vì thế mà khung mắc dây của đàn phải chịu một lực căng rất lớn (khoảng 20 tấn), nên khung mắc dây đã được thay bằng một khung bằng gang.

Tuy những cải tiến giúp chúng ta có được cây đàn piano hoàn hảo như ngày nay, nhưng tất cả đều dựa trên phát minh của Bartolomeo Cristofori. Để tưởng nhớ công lao của Bartolomeo Cristofori, 150 năm sau khi ông mất, người ta đã dựng một đài tưởng niệm tại thành phố Padoue – nơi chôn nhau cắt rốn của ông.

Cấu trúc đàn piano ngày nay


Cấu trúc đàn piano ngày nay Cây piano hiện đại có cấu trúc gồm 6 bộ phận chính và được đánh số trong hình dưới đây Cấu trúc đàn piano ngày nay 1.Khung đàn (Frame): thường được làm bằng sắt, ở rìa sau gắn thanh chốt dây để cài chặt một đầu dây đàn. Ở rìa trước là tấm khóa lên dây, gồm nhiều chốt lên dây. Đầu dây đàn còn lại được quấn quanh chốt lên dây. Độ căng của dây (cao độ của nốt) được cân chỉnh bằng cách vặn các chốt lên dây này. 2.Bảng cộng hưởng (Soundboard): làm bằng gỗ vân sam mỏng và cứng, đặt ở dưới lớp dây đàn, có tác dụng tăng âm bằng rung động cộng hưởng. 3.Dây đàn (String): được làm từ dây thép, có độ dài và độ dày tăng dần lên theo cao độ giảm dần. 2 hoặc 3 dây đàn có độ cao như nhau được sử dụng cho mỗi nốt âm cao. Những nốt có âm thấp hơn chỉ dùng một dây độc lập, có kích thước lớn và được làm nặng hơn bằng cách cuộn những sợi dây đồng mỏng xung quanh dây. 4.Bộ cơ (Action): bao gồm tất cả các bộ phận khiến đầu búa chuyển động, chạm tới dây đàn. Bộ phận có thể nhìn thấy rõ nhất chính là bàn phím, được điều khiển trực tiếp bằng ngón tay người chơi. Các phím đàn trắng được làm bằng nhựa hoặc ngà voi, các phím đen được làm bằng nhựa hoặc gỗ mun. 5.Bộ pedals (bàn đạp): là các cần điều khiển bằng chân. Pedal vang âm (phía bên phải – damper pedal) giữ “bàn phím chặn âm” tách khỏi dây đàn, cho phép dây đàn rung một thời gian dài – tạo ra âm thanh ngân vang ngay cả khi tay đã buông khỏi phím đàn. Pedal giảm âm (phía bên trái – còn gọi là una corda) làm giảm một nửa khoảng cách giữa đầu búa và dây đàn, hoặc là chuyển vị trí của đầu búa một chút sang bên cạnh, khiến đầu búa chỉ chạm vào một dây đàn thay vì 2 hay 3 dây như bình thường, làm giảm cường độ âm thanh. Có những cây đàn piano có thêm pedal thứ 3, pedal duy trì (sustaining pedal). Pedal này không giữ toàn bộ bàn phím chặn âm. Khi phím đàn được nhấn xuống, phím chặn âm tương ứng của nốt đó sẽ được nâng lên, pedal duy trì sẽ chỉ giữ riêng biệt phím chặn âm này và không ảnh hưởng tới các phím chặn âm khác. Việc sử dụng những chiếc pedal này có khả năng tạo ra những thay đổi âm thanh tinh tế. Phần lớn những cây vertical piano thay Pedal duy trì bằng pedal tập luyện (pratise pedal) có tác dụng đặt tấm nỉ vào giữa đầu búa và dây, tạo ra âm thanh rất nhỏ. 6. Hộp đàn (Case) tạo nên hình dáng đàn và là cơ sở để người ta phân loại đàn piano thành grand piano (piano cánh), square piano (piano vuông) và vertical piano (piano đứng). Loại piano vuông (chính xác là hình chữ nhật) không còn được sản xuất nữa, nó được thay thế hoàn toàn bằng những chiếc vertical piano chiếm ít diện tích hơn. Loại grand piano được chế tạo với nhiều kích cỡ khác nhau, từ kiểu đàn concert dùng trong các buổi hòa nhạc dài 2,69m (tương đương 8 ft 10 inch) cho tới còn những chiếc baby grand chỉ dài 1,8m. Kiểu đàn vertical piano cũng bao gồm cả loại đàn vertical piano kích thước nhỏ của những năm cuối thế kỉ thứ 19 giống như đàn spinet ngày nay (đàn harpsichord loại nhỏ) và đàn piano hộp. Ở đàn piano đứng dây đàn chạy dọc hoặc chéo từ trên xuống dưới. Ở đàn piano đứng và những đàn cơ nhỏ đôi khi người ta xếp chồng dây đàn: dây đàn những nốt trầm được căng chéo phía trên các dây ngắn của âm khu cao. Bằng cách này chúng có thể tăng thêm độ dài và cải thiện chất lượng âm thanh. Tổng lực căng dây trên một cây đàn cơ vào khoảng 30 tấn, còn của một cây đàn đứng khoảng 14 tấn.

Các nốt nhạc trên phím đàn piano


Các nốt nhạc trên đàn phím đàn piano

Có 7 ký tự để thể hiện 7 nốt nhạc trên phím đàn piano đó là: A B C D E F G (La, Si, Đô, Rê, Mi, Fa, Sol).

Phím tận cùng bên trái của đàn piano là A. Các phím màu trắng kế bên A lần lượt là B C D E F và G. Sau đó lại tiếp tục bắt đầu là A…

Các nốt nhạc trên phím đàn piano

Hình 1

Các phím trắng thì liên tục nằm sát nhau; còn các phím đen thì được sắp xếp theo nhóm, nhóm 2 phím và nhóm 3 phím. Bạn hãy thử tìm tất cả các nhóm có 2 phím đen. Tiếp theo tìm tới các nhóm có 3 phím đen.

Phím trắng nằm giữa các nhóm 2 phím đen lúc nào cũng là D. Bạn thử đếm xem có bao nhiêu nốt D.

Các nốt nhạc trên phím đàn piano

Hình 2

Tên của phím nằm bên trái phím D là gì? Còn phím nằm bên phải?

Hãy đàn tất cả các nốt C D E.

Nốt G và A là các phím trắng nằm giữa các nhóm 3 phím đen. Hãy đàn tất cả các nốt G và A.

Các nốt nhạc trên phím đàn piano

Hình 3

Tên của phím nằm bên trái phím G là gì? Còn phím nằm bên phải A? Hãy đàn tất cả các phím F G A B.

Bây giờ bạn đã biết tên của tất cả các phím màu trắng nằm trên đàn piano

Dạy chơi đàn piano căn bản


Đàn piano tương đối phức tạp đối với đa số chúng ta . Tuy nhiên có một cách đơn giản để những người không biết đọc nốt nhạc có thể chơi piano như sau:

Dạy chơi đàn Piano
PHÍM ĐÀN PIANO

Đàn piano là tổ hợp của 7 nốt nhạc “do re mi fa sol la si”, ta đánh số “1 2 3 4 5 6 7″ như hình trên. Sau 7 nốt nhạc đầu, tổ hợp 7 nốt kế tiếp cũng là “do re mi fa sol la si” nhưng với âm cao hơn, ta đánh số “1. 2. 3. 4. 5. 6. 7.” Tương tự các nốt đen đánh số theo thứ tự của nốt nhạc trắng, ta có “1# 2# 4# 5# 6#”. Nếu ta đặt tay ở tổ hợp phím 1,2,3,4,5,6,7 thì những phím về bên phải sẽ đếm số lên là 8,9,10,11,12,13,14, …. Thông thường thì những phím đầu có nốt thấp, ta thường chọn phím giữa để đánh. Sau đây là một số bài nhạc thông dụng: Bài Happy birth day: 1 1 2 1 4 3 , 1 1 2 1 5 4 , 1 1 8 6 4 3 2 , 6# 6# 6 4 5 4 Happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday to …. , happy birthday to you. . Bài Mary had a little lamb 3 2 1 2 3 3 3 , 2 2 2 , 3 3 3 Mary had a little lamb, little lamb, little lamb 3 2 1 2 3 3 3 , 3 2 2 3 2 1 1 Mary had a little lam, it’s fleece was white as snow . Bài Twinkle, twinkle little star 1 1 5 5 6 6 5 , 4 4 3 3 2 2 1 Twinkle, twinkle little star, how I wonder how you are 5 5 4 4 3 3 2 , 5 5 4 4 3 3 2 Up above the world so high, like a diamon in the sky 1 1 5 5 6 6 5 , 4 4 3 3 2 2 1 Twinkle, twinkle little star, how I wonder how you are . Bài Jingle bell 3 3 3 , 3 3 3 , 3 5 1 2 3 Jingle bell, jingle bell, jingle all the way 4 4 4 4 , 4 3 3 3 , 3 2 2 3 2 5 Oh what fun it is to ride, in a one horse open sleigh! 3 3 3 , 3 3 3 , 3 5 1 2 3 Jingle bell, jingle bell, jingle all the way 4 4 4 4 , 4 3 3 3 , 5 5 4 2 1 Oh what fun it is to ride, in a one horse open sleigh! . Bài Silent Night, Holy Night 5 6 5 3 , 5 6 5 3 , 9 9 7 , 8 8 5 6 6 8 7 7 6 5 6 5 3 6 6 8 7 6 5 6 5 3 9 9 11 9 7 8 10 8 5 3 5 4 2 1 .

Bài Row, row, row your boat 4 4 4 4# 5 , 5 4# 5 5# 6 Row row row your boat, Gently down the stream 7 7 7 , 6 6 6 , 5 5 5 , 4 4 4 , 6 5# 5 4# 4 Merily, merily, merily, merily, life is but a dream .
Enjoy!!!